Hồ Đinh

Trận chiến Xuân Lộc là cơn phẫn nộ cuối cùng của một quân đội anh hùng bị bội phản. Trung đoàn 43BB của tôi là một trong những đại đơn vị kỳ cựu của QLVNCH, thoát thai từ trung đoàn 404 bộ binh của sư đoàn 5 khinh chiến. Năm 1974, tiểu đoàn 2/3 và tiểu đoàn 1/52 của sư đoàn 18BB được TT Nguyễn Văn Thiệu tuyên dương trước quân đội với thành tích hạ nhiều tăng T54 và chiến xa PT76 của CS Bắc Việt tại Bến Cát (Bình Dương) — 2 xe tăng T54 và PT76 được lái về làm kiểng trong khuôn viên Dinh Độc Lập cho đến ngày đổi đời 1/5/75 mới dời đi.

Riêng tiểu đoàn 1/43 lại là đơn vị chủ lực quân đầu tiên đến trấn đóng tại Tỉnh Long Khánh từ đầu năm 1964 khi thành phố Xuân Lộc lúc đó còn nhỏ xíu, buồn hiu với bao nhiêu nổi bực dọc : mùa nắng thì bụi bay đỏ người, trái lại mùa mưa thì sình lầy trơn trợt. Muỗi mòng, đỉa vắt không thiếu, nhưng đổi lại dân chúng địa phương hiền lành, hiếu khách, đặc biệt các em nữ sinh miền đất đỏ đồn điền rất dỏm dáng và thích lính miền xa.

North Vietnamese Army’s attack on Xuan Loc in April 1975.

Năm 1966, sư đoàn 10 dược thành lập với 3 trung đoàn nguyên biệt lập: trung đoàn 43BB, trung đoàn 52 và trung đoàn 48. Tướng Lữ Lan, tướng có tiếng là tham nhũng, được làm tư lịnh sư đoàn. Có lẽ vì mang số 10 bù xui xẻo nên cuối năm 1966, tiểu đoàn 1-43 đã gần như bị tan hàng khi kịch chiến với 2 trung đoàn CS Bắc Việt tại xã Võ Su, quận Võ Đắc (Bình Tuy), nên phải trở về tái trang bị và huấn luyện lại tại trung tâm huấn luyện Lam Sơn (Dục Mỹ). Sau đó sư doàn 10 được đổi danh hiệu là 18BB — vị tư lịnh cuối cùng là chuẩn tướng Lê Minh Đảo, cũng là vị tướng đã cùng với 2 phụ tá : Đại tá Lê Xuân Mai (Tư lịnh phó sư đoàn 18) và Đại tá BDQ (Biệt Động Quân) Phạm Văn Phúc (Tỉnh trưởng Long Khánh) chỉ huy phòng tuyến thép Xuân Lộc từ rạng sáng 8/4/75 cho đến khi được lịnh rút quân ngày 21/4/75.

Cuộc chiến đấu dũng cảm của những người lính miền đất đỏ Long Khánh trong lúc đất nước sắp sụp đổ thật ra cũng chỉ là cơn phẫn nộ cuối cùng của một quân đội, trên phần đất còn lại của người VN, cố níu kéo gìn giữ, để dân tộc mình có chỗ cắm dùi, nhưng cuối cùng những người lính đó đã thất bại não nề vì bị cấp lãnh đạo tối cao bán đứng, đồng minh phản bội, trí thức toa rập với kẻ thù, trù dập, đuổi xô và đâm sau lưng những nhát trí mạng. Thật não nùng thay:

Chí chưa thành, danh chưa đạt
Trai trẻ bao năm mà đầu bạc
Trăm năm thân thế, bóng tà dương…

(Thơ Nguyễn Bá Trạc)

Sau này, viết về mặt trận Xuân Lộc (tĩnh Long Khánh) tháng 4/75, người thương cũng như kẻ thù VNCH, đều có cùng chung quan điểm khi bày tỏ sự khen ngợi và lòng cảm phục người lính miền Nam. Chính tướng Văn Tiến Dũng, Tổng tư lịnh Quân đội Nhân dân của Bắc Việt đã hé lộ điều này trong tác phẩm của y “Đại Thắng Mùa Xuân 75” rằng:

“Mặt trận Xuân Lộc ác liệt và đẫm máu từ những ngày đầu tiên. Các sư đoàn 6, 7, 341 của ta phải tiến công trong thành phố nhiều lần nhưng gặp phải sức kháng cự mãnh liệt của Tung đoàn 43 của địch. Các đơn vị pháo của ta đã sử dụng nhiều hơn cơ số đạn dự trù. Số lớn tăng và xe bọc thép của ta bị hạ…”

Còn D. Todd, người ký giả Pháp, từng thiên Cộng, đã viết trong “Cruel April : The Fall of Saigon” như sau:

“Tinh thần binh sĩ VNCH tại Xuân Lộc rất cao, hệ thống truyền tin rất tốt. Các đơn vị Dù và BDQ đã đến. Con đường Saigon được khai thông — các sĩ quan của QLVNCH đang gọi pháo binh và không yểm rất chính xác, nhanh chóng, tình trạng chiến đấu của họ gần giống như lúc còn quân đội Mỹ yểm trợ…”

Nhưng có lẽ ý nghĩa và cảm động nhất là báo cáo của Tướng X. Smith, Trưởng phòng tùy viên quân sự (DAO) lên chức Tham mưu trưởng liên quân Mỹ:

“Tại chiến trường Long Khánh, rõ ràng QLVNCH đã chứng tỏ sự quyết tâm và anh dũng chiến đấu chống lại địch quân đông gắp nhiều lần…”

Tướng Smith với lương tâm của một người lính, không khách sáo và hào nhoáng như miệng lưỡi của các chính khách, đã nói lên phần nào danh dự của QLVNCH trước đám trí thức da trắng, da màu đa sự.

Bối Cảnh VNCH Từ Sau Hiệp Định Paris 1973 Đến Lúc Mất Nước

Trước khi thỏa hiệp Paris được ký kết, ngày 10/10/1972, trong một cuộc hành quân tại Quảng Trị, QLVNCH đã khám phá một hầm bí mật và tịch thu được một bản thảo của hiệp định chấm dứt chiến tranh và vãn hồi hòa bình tại VN, cùng các kế hoạch của Bắc Việt nhằm dành dân lấn đất của VNCH.

Đô đốc Sharp, nguyên tư lịnh các lực lượng Mỹ tại Thái Bình Dương, sau khi chấm dứt chiến tranh tại Đông Dương lần 2 (1955-1975), năm 1978 đã thổ lộ sự thật trong tác phẩm “Strategy For Defeat” như sau:

“Hiệp định Hòa bình Paris ngày 27/1/73 mà Mỹ chấp thuận và bắt buộc VNCH thi hành, không phải là một công thức hòa bình. Theo đó, CSBV không còn sợ Mỹ can thiệp nên đã tự do xâm lăng miền Nam Việt Nam mà không bị chế tài…”

Sau năm 1973, đường mòn Hồ Chí Minh biến thành một xa lộ đất — nhiều đơn vị Bắc Việt bổ sung vào Nam như các trung đoàn 263 tên lửa phòng không và hỏa tiển SA-2, 3000 cán bộ Công an Bắc Việt đến nắm quyền sinh sát tại các vùng đất vừa lấn chiếm, một hệ thống ống dẫn dầu dài hơn 5000km chạy từ Bắc xuống Quảng Trị, xuyên qua Cao nguyên Trung phần tới Lộc Ninh, song song với ống dẫn dầu cũ có sẵn từ Vinh chạy đến thung lũng A Shaọ Nhiều lần, các thám thính cơ của không quân VN đã phát hiện từng đoàn xe của BV trên xa lộ đất nhưng bị Mỹ tìm mọi cách ngăn chặn không cho oanh tạc và chính quyền VNCH cũng không dám phản đối vì Nixon đã đe dọa “sẽ cắt hết tiền viện trợ”.

Tại Mỹ, từ 1971-1973, nền kinh tế và tài chính đang bước vào thời kỳ khủng hoảng trầm trọng, cán cân thương mại bị thâm thủng khiến Mỹ 2 lần liền cho phá giá đồng Mỹ kim, khiến cho các đồng minh của Mỹ đều phải thay đổi hệ thống tiền tệ riêng để khỏi phải chết chìm theo Mỹ. Còn các nhà tư bản thì nhanh chân rút vốn đem ra ngoại quốc đầu tư, gây cảnh thất nghiệp, tưới dầu thêm trong rừng lửa phản chiến đòi chấm dứt chiến tranh VN, đang hoành hành bốc cháy dữ dội khắp nơi trên nước Mỹ.

Vì vậy hồi tháng 8/73, Quốc hội Mỹ ra đạo luật cấm sử dụng ngân khoảng yểm trợ quân sự cho các nước Đông Dương. Tháng 10/73 lại ban hành luật War Power Act hạn chế quyền hạn của TT Mỹ. 2 đạo luật trên vừa cho phép CSBV toàn quyền xâm lăng VNCH và bảo đảm Mỹ sẽ không can thiệp vào VN trở lại đã khiến cho Hà Nội bất chấp lịnh của quan thầy Trung Cộng, họp hội nghị Trung ương lần thứ 21, ra lịnh tấn công cưỡng chiếm miền Nam.

Tại Saigon, TT Thiệu lại tiếp tục chơi trò gian lận bầu cử, lưu manh trong lúc đất nước sắp nguy khốn vì tham nhũng, bất công, thù trong giặc ngoài khiến cho hậu phương nát bét, tạo cơ hội tốt cho sự thành công dễ dàng của Bắc Việt sau này.

3/4/74: Thượng nghị viện Mỹ biểu quyết cắt giảm viện trợ của Nam VN.

11/4/74: CS Bắc Việt tràn ngập trại Tống Lê Chân (Bình Long) do Tiểu đoàn 92 BDQ của Trung tá Lê Văn Ngôn khóa 25 sĩ quan Đà Lạt trấn giữ trong 510 ngày bị vây hãm.

7/8/74: quận Thường Đức, tỉnh Quảng Nam, thất thủ.

9/8/74: TT Nixon từ chức vì vụ Watergate, mang theo xuống mồ những lời hứa hẹn với TT Thiệu về viện trợ, can thiệp,…Khi Ford lên thay thế, đã không thèm đếm xỉa gì tới VN nữa.

Đầu năm 1975, binh đoàn 301 Bắc Việt gồm các sư đoàn 3 và 7, với tăng, đại pháo tấn công tỉnh Phước Long do sư đoàn 5BB trấn giữ — Phước Long lọt vào tay CSBV ngày 6/1/75 vì không có quân tiếp viện. Trước sự vi phạm trắng trợn và láu cá của CSBV, Hoa Kỳ chỉ phản ứng lấy lệ, bằng chứng là TT Ford không đề cập gì đến tình trạng nguy khốn của Nam VN trên bài diễn văn nhậm chức trước Quốc hội Mỹ ngày 5/1/75, đã vậy, theo B. Paulmer Jr. trong “The 25th year war American’s military role in Vietnam” xuất bản năm 1984, thì ít ngày sau, TT Ford lại họp báo để dứt khoát là Mỹ chấm dứt can thiệp vào VN. Đây là lý do bằng vàng ròng, khiến CSBV hồ hởi tấn công cưỡng chiếm miền Nam.

Rồi chiến dịch 275 mở màn, 2 giờ sáng ngày 10/3/75, Bắc Việt tấn công thành phố Ban Mê Thuột của Cao nguyên Trung phần và thành phố đã mất sau 2 ngàỵ Giao tranh đẫm máu, ác liệt giữa Cộng quân và đơn vị trú phòng gồm có trung đoàn 53/sư đoàn 23BB và liên đoàn 21 BDQ + Địa Phương Quân (DPQ) + các đơn vị yểm trợ của sư đoàn 23BB.

Thảm họa, giặc ngoài, Mỹ bỏ rơi, vài trí thức a dua đâm sau lưng lính chiến khiến TT Thiệu mất trí, điên loạn, đẻ ra chiến lược “đầu bé, đít to” ra lịnh bỏ Cao nguyên, bỏ dân chúng, bỏ DPQ, Nghĩa Quân (NQ), cho CS, rút trọng pháo chủ lực quân về bảo vệ duyên hải bằng con đường máu liên tỉnh lộ 7 Phú Bổn – Phú Yên ngày 14/3/75 được chỉ huy bởi bọn tướng bất tài, bất trí, ham quyền, sợ chết. Rồi kế đó lại bỏ Quảng Trị, Huế ngày 20/3/75 khiến cho bao người dân vô tội làm mồi cho hỏa lực pháo binh CS khi họ di tản theo quân đội rút quân, làm hủy diệt tất cả các lực lượng pháo binh, chiến xa M48, M41, M113 của quân đoàn I, IỊ 3 sư đoàn 1,3,23 tan hàng. 200 máy bay các loại bị bỏ tại các phi trường Huế, Đà Nẵng, Pleiku cùng với 1000 chiến xa + 900 đại bác không được phá hủỵ Các sư đoàn 2, 22 Thủy quân Lục chiến, sư đoàn 1,2,6 Không quân, 1 lữ đoàn Dù, 11 Liên đoàn BDQ, các Liên đoàn Công binh, Truyền tin, Tiếp vận, v.v…bị tổn thất quá nửa quân số. TT Thiệu chỉ trong 1 phút quyết dịnh tại Cam Ranh trước các tướng Viên, Khiêm, Quang, Phú đã làm mất 2/3 lãnh thổ và làm tan rã 1/2 lực lượng VNCH.

Mặt Trận Xuân Lộc

Sau ngày 2/4/75, quân đoàn 2 chỉ còn lại Ninh Thuận, Bình Thuận, Ninh Thuận nên được sát nhập vào quân đoàn 3. Phan Rang và Xuân Lộc trở thành 2 cửa ngõ để Bắc Việt vào Saigon bằng quốc lộ 1 và 20.

South Vietnamese troops displaying captured communist flags after a victorious battle at Xuan Loc in April 1975.

Xuân Lộc là tỉnh lỵ của tỉnh Long Khánh được TT Diệm thành lập từ năm 1957 bằng cách cắt bớt phần đất của tỉnh Biên Hoà, mục đích định cư đồng bào Việt, Mường, Nùng, Thái di cư năm 1954. Tỉnh có diện tích vào khoảng 3,457 km2, đất đai phần lớn là núi thấp, đồi cao, rừng thưa và đồn điền cao su — trong kháng chiến là một vị trí chiến lược quan trọng vì là ngã ba của 2 quốc lộ 1 và 20, cửa ngõ từ miền Trung, miền Cao nguyên vào Saigon chỉ cách nhau 80 km, do đó Xuân Lộc được coi như vòng đai ngoài bảo vệ phi trường Biên Hòa và thủ độ Xuân Lộc nằm trên đường giao liên giữa chiến khu C và D của VC với các mật khu Mây Tầm, Cù Mị, Xuyên Mộc, Đất Đỏ của tỉnh Phước Tuy, con đường mạch máu mà Bắc Việt dùng để nhận tiếp tế bổ sung quân và tiếp liệu bằng đường biển, vì vậy từ lâu sư đoàn 18BB đã được bố trí tại tỉnh này để ngăn chận.

Để cắt đứt đường rút quân của VNCH từ 2 tỉnh Tuyên Đức, Lâm Đồng, Bắc Việt tấn công quận Định Quán do tiểu đoàn 2/43 trấn giữ và trong khi giao tranh đẫm máu, không quân VN đã thả lầm 2 trái bom 500 cân Anh vào vị trí của quân ta tại núi Đất, khiến gần 200 người chết và bị thương trong đó có cả vị tiểu đoàn trưởng, làm Định Quán mất ngày 17/3/75.

Để tấn công Long Khánh, BV đã tung vào chiến trường này quân đoàn 4 gồm 3 sư đoàn 6,7,341 và các đơn vị có sẵn của quân khu 7. Thiếu tướng CS Hoàng Cầm là tư lịnh, chính ủy là Thiếu tướng Hoàng Thế Thiệp. Trận chiến đẫm máu đã đồng loạt xảy ra tại 3 phòng tuyến : ngã ba Dầu Giây, thị xã Xuân Lộc và Gia Rai (nằm tiếp cận giữa Bình Tuy và Long Khánh). Phía QLVNCH có sư doàn 18BB (các trung đoàn 43,48,52), lực lượng DPQ+NQ tỉnh và các đơn vị tăng phái gồm trung doàn 8 (sư đoàn 5BB), lữ đoàn 3 Thiết kỵ, liên đoàn 7BDQ, 2 tiểu đoàn pháo binh, liên đoàn 81 Biệt Cách Dù và toàn bộ lữ đoàn 1 Dù (với các tiểu đoàn 1,2,8,9) và tiểu đoàn 3 pháo binh Dù, sư đoàn 4 Không quân VN từ phi trường Cần Thơ, phụ trách không yểm chiến thuật. Tất cả lực lượng trên đặt dưới quyền chỉ huy của Chuẩn tướng Lê Minh Đảo (tư lịnh sư đoàn 18BB) và 2 phụ tá tài giỏi, uy tín : Đại tá tư lịnh phó Lê Xuân Mai và Tỉnh trưởng Long Khánh Đại tá Phạm Văn Phúc BDQ mới về thay Trung tá Lê Ánh Nguyệt hồi 3/75.

Chiến trường Long Khánh gồm 3 mặt trận chính: mặt trận Ngã ba Dầu Giây do trung đoàn 52BB và một thiết đoàn chiến xa trấn giữ. Mặt trận núi Chứa Chan, Gia Rai do liên đoàn 7 BDQ và trung đoàn 43BB. Thị xã Xuân Lộc do trung đoàn 43BB và các tiểu đoàn DPQ bảo vệ. Bộ tư lịnh hành quân của Tướng Lê Minh Đảo đặt tại quận đường Xuân Lộc ngã ba Tân Phong – Long Giao được bảo vệ bởi các đơn vị trừ bị của sư đoàn, pháo binh và một thiết đoàn chiến xa.

đọc phần 2/2…