Đoàn Thị Điểm

Thuở trời đất nổi cơn gió bụi
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên
Xanh kia thăm thẳm từng trên
Vì ai gây dựng cho nên nỗi này?
5. Trống Trường Thành lung lay bóng nguyệt
Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây
Chín tầng gươm báu trao tay
Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh
Nước thanh bình ba trăm năm cũ
10. Áo nhung trao quan vũ từ đây
Sứ trời sớm giục đường mây
Phép công là trọng niềm tây sá nào
Đường rong ruổi lưng đeo cung tiễn
Buổi tiễn đưa lòng bận thê noa
15. Bóng cờ tiếng trống xa xa
Sầu lên ngọn ải oán ra cửa phòng
Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt
Xếp bút nghiên theo việc đao cung
Thành liền mong hiến bệ rồng
20. Thước gươm đã quyết chẳng dung giặc trời
Chí làm trai dặm nghìn da ngựa
Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao
Giã nhà đeo bức chiến bào
Thét roi cầu Vị ào ào gió thu
25. Ngòi đầu cầu nước trong như lọc
Đường bên cầu cỏ mọc còn non
Đưa chàng lòng dặc dặc buồn
Bộ khôn bằng ngựa thuỷ khôn bằng thuyền
Nước có chảy mà phiền khôn rửa
30. Cỏ có thơm mà dạ chẳng khuây
Nhủ rồi tay lại cầm tay
Bước đi một bước dây dây lại dừng
Lòng thiếp tựa bóng trăng theo dõi
Dạ chàng xa tìm cõi Thiên San
35. Múa gươm rượu tiễn chưa tàn
Chỉ ngang ngọn giáo vào ngàn hang beo
Săn Lâu Lan rằng theo Giới Tử
Tới Man Khê bàn sự Phục Ba
Áo chàng đỏ tựa ráng pha
40. Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in
Tiếng nhạc ngựa lần chen tiếng trống
Giáp mặt rồi phút bỗng chia tay
Hà lương chia rẽ đường này
Bên đường trông lá cờ bay ngùi ngùi
45. Quân trước đã gần ngoài doanh Liễu
Kỵ sau còn khuất nẻo Tràng Dương
Quân đưa chàng ruổi lên đường
Liễu dương biết thiếp đoạn đường này chăng?
Tiếng địch thổi nghe chừng đồng vọng
50. Hàng cờ bay trong bóng phất phơ
Dấu chàng theo lớp mây đưa
Thiếp nhìn rặng núi ngẩn ngơ nỗi nhà
Chàng thì đi cõi xa mưa gió
Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn
55. Đoái trông theo đã cách ngăn
Tuôn màu mây biếc trải ngần núi xanh
Chốn Hàm kinh chàng còn ngoảnh lại
Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang
Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương
60. Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng
Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?
65. Chàng từ đi vào nơi gió cát,
Đêm trăng này nghỉ mắt phương nao?
Xưa nay chiến địa dường bao,
Nội không muôn dặm xiết sao dãi dầu.
Hơi gió lạnh người rầu mặt dạn,
70. Dòng nước sâu ngựa nản chân bon.
Ôm yên gối trống đã chồn.
Nằm vùng cát trắng ngủ cồn rêu xanh.
Nay Hán xuống Bạch Thành đóng lại,
Mai Hồ vào Thanh Hải dòm qua.
75. Hình khe thế núi gần xa,
Đứt thôi lại nối thấp đà lại cao.
Sương đầu núi buổi chiều như gội,
Nước lòng khe nẻo lội còn sâu.
Não người áo giáp bấy lâu,
80. Lòng quê qua đó mặt sầu chẳng khuây.
Trên trướng gấm thấu hay chăng nhẽ,
Mặt chinh phu ai vẽ cho nên?
Tưởng chàng rong ruổi mấy niên,
Chẳng nơi hãn hải thì miền Tiêu Quan.
85. Đã trắc trở đòi ngàn xà hổ,
Lại lạnh lùng những chỗ sương phong.
Lên cao trông thức mây lồng,
Lòng nào là chẳng động lòng bi thương?
Chàng từ chốn đông nam khơi nẻo,
90. Biết nay chàng tiến thảo nơi đâu.
Những người chinh chiến bấy lâu,
Nhẹ xem tính mệnh như màu cỏ cây.
Nức hơi mạnh ân dày từ trước,
Trải chốn nghèo tuổi được bao nhiêu.
95. Non Kỳ quạnh quẽ trăng treo,
Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò.
Hồn tử sĩ gió ù ù thổi,
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi.
Chinh phu tử sĩ mấy người,
100. Nào ai mạc mặt nào ai gọi hồn?
Dấu binh lửa nước non như cũ,
Kẻ hành nhân qua đó chạnh thương.
Phận trai già ruổi chiến trường,
Chàng Siêu tóc đã điểm sương mới về.
105. Tưởng chàng trải nhiều bề nắng nỏ,
Ba thước gươm một cỗ nhung yên.
Xông pha gió bãi trăng ngàn,
Tên reo đầu ngựa giáo dan mặt thành.
Áng công danh trăm đường rộn rã,
110. Những nhọc nhằn nào đã nghỉ ngơi.
Nỗi lòng biết ngỏ cùng ai.
Thiếp trong cánh cửa chàng ngoài chân mây.
Trong cửa này đã đành phận thiếp,
Ngoài mây kia há kiếp chàng vay?
115. Những mong cá nước vui vầy,
Nào ngờ đôi ngả nước mây cách vời.
Thiếp chẳng tưởng ra người chinh phụ,
Chàng há từng học lũ vương tôn.
Cớ sao cách trở nước non,
120. Khiến người thôi sớm thôi hôm những sầu?
Trang phong lưu đang chừng niên thiếu,
Sánh nhau cùng dan díu chữ duyên.
Nỡ nào đôi lứa thiếu niên,
Quan san để cách hàn huyên cho đành!
125. Thuở lâm hành oanh chưa bén liễu,
Hỏi ngày về ước nẻo quyên ca.
Nay quyên đã giục oanh già,
Ý nhi lại gáy trước nhà líu lo.
Thuở đăng đồ mai chưa dạn gió,
130. Hỏi ngày về chỉ độ đào bông.
Nay đào đã quyến gió đông,
Phù dung lại đã bên sông bơ xờ.
Hẹn cùng ta Lũng Tây nham ấy,
Sớm đã trông nào thấy hơi tăm.
135. Ngập ngừng lá rụng cành trâm,
Chiều hôm nghe dậy tiếng cầm lao xao
Hẹn nơi nao Hán Dương cầu nọ
Chiều lại tìm nào có tiêu hao.
Ngập ngừng gió thổi áo bào,
140. Bãi hôm tuôn dẫy nước trào mênh mông.
Tin thường lại người không thấy lại,
Hoa dương tàn đã trải rêu xanh.
Rêu xanh mấy lớp chung quanh,
Sân đi một bước trăm tình ngẩn ngơ.
145. Thư thường lại người chưa thấy lại,
Bức rèm thưa lần dãi bóng dương.
Bóng dương mấy buổi xuyên ngang,
Lời sao mười hẹn chín thường đơn sai?
Thử tính lại diễn khơi ngày ấy,
150. Tiền sen này đã nảy là ba.
Xót người lần lữa ải xa,
Xót người nương chốn hoàng hoa dặm dài.
Tình gia thất nào ai chẳng có.
Kìa lão thân khuê phụ nhớ thương.
155. Mẹ già phơ phất mái sương.
Con thơ măng sữa vả đương phù trì
Lòng lão thân buồn khi tựa cửa,
Miệng hài nhi chờ bữa mớm cơm.
Ngọt bùi thiếp đã hiếu nam,
160. Dạy con đèn sách thiếp làm phụ thân.
Nay một thân nuôi già dạy trẻ.
Nỗi quan hoài mang mể biết bao.
Nhớ chàng trải mấy sương sao,
Xuân từng đổi mới đông nào còn dư.
165. Kể năm đã ba tư cách diễn,
Mối sầu thêm nghìn vạn ngổn ngang.
Ước gì gần gũi tấc gang.
Giãi niềm cay đắng để chàng tỏ hay.
Thoa cung Hán thuở ngày xuất giá,
170. Gương lầu Tần dấu cũ soi chung.
Cậy ai mà gửi tới cùng,
Để chàng thấu hết tấm lòng tương tư?
Nhẫn đeo tay mọi khi ngắm nghía
Ngọc cài đầu thuở bé vui chơi.
175. Cậy ai mà gửi tới nơi,
Để chàng trân trọng dấu người tương thân?
Trải mấy xuân tin đi tin lại,
Tới xuân này tin hãy vắng không.
Thấy nhạn luống tưởng thư phong,
180. Nghe hơi sương sắm áo bông sẵn sàng.
Gió tây nổi khôn đường hồng tiện,
Xót cõi ngoài tuyết quyến mưa sa.
Màn mưa trướng tuyết xông pha,
Nghĩ thêm lạnh lẽo kẻ ra cõi ngoài.
185. Đề chữ gấm phong thôi lại mở,
Gieo bói tiền tin dở còn ngờ,
Trời hôm tựa bóng ngẩn ngơ,
Trăng khuya nương gối bơ phờ tóc mai.
Há như ai hồn say bóng lẫn,
190. Bỗng thơ thơ thẩn thẩn như không.
Trâm cài xiêm thắt thẹn thùng,
Lệch làn tóc rối lỏng vòng lưng eo.
Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.
195. Ngoài rèm, thước chẳng mách tin,
Trong rèm dường đã có đèn biết chăng.
Đèn có biết dường bằng chẳng biết,
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.
Buồn rầu nói chẳng nên lời,
200. Hoa đèn kia với bóng người khá thương.
Gà eo óc gáy sương năm trống,
Hoè phất phơ rủ bóng bốn bên.
Khắc giờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền bể xa.
205. Hương gượng đốt hồn đà mê mải,
Gương gượng soi lệ lại chứa chan.
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,
Dây uyên kinh đứt phím loan ngại chùng.
Lòng này gửi gió đông có tiện,
210. Nghìn vàng xin gửi đến non Yên.
Non Yên dầu chẳng tới miền,
Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời.
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong.
215. Cảnh buồn người thiết tha lòng.
Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun.
Sương như búa bổ mòn gốc liễu,
Tuyết dường cưa xẻ héo cành ngô.
Giọt sương phủ bụi chim gù,
220. Sâu tường kêu vẳng chuông chùa nện khơi.
Vài tiếng dế nguyệt soi trước ốc,
Một hàng tiêu gió thốc ngoài hiên.
Lá màn lay ngọn gió xuyên,
Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm.
225. Hoa giãi nguyệt nguyệt in một tấm,
Nguyệt lồng hoa hoa thắm từng bông.
Nguyệt hoa hoa nguyệt trùng trùng,
Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đau!
Đâu xiết kể muôn sầu nghìn não,
230. Từ nữ công phụ xảo đều nguôi.
Biếng cầm kim biếng đưa thoi,
Oanh đôi thẹn dệt bướm đôi ngại thùa.
Mặt biếng tô miệng càng biếng nói,
Sớm lại chiều dòi dõi nương song.
235. Nương song luống ngẩn ngơ lòng,
Vắng chàng điểm phấn trang hồng với ai?
Biếng trang điểm lòng người sầu tủi,
Xót nỗi chàng ngoài cõi Giang Lăng.
Khác gì ả Chức chị Hằng,
240. Bến Ngân sùi sụt cung trăng chốc mòng.
Sầu ôm nặng hãy chồng làm gối,
Muộn chứa đầy hãy thổi làm cơm
Mượn hoa mượn rượu giải buồn
Sầu làm rượu nhạt muộn dồn hoa ôi.
245. Gõ sênh ngọc mấy hồi không tiếng,
Ôm đàn tranh mẩy phím rời tay.
Xót người hành dịch bấy nay,
Dặm xa thêm mỏi tráp đầy lại vơi.
Ca quyên ghẹo làm rơi nước mắt,
250. Trống tiều khua như rứt buồng gan.
Võ vàng đổi khác dung nhan,
Khuê li mới biết tân toan dường này.
Nếm chua cay tấm lòng mới tỏ,
Chua cay này há có vì ai?
255. Vì chàng lệ thiếp nhỏ đôi,
Vì chàng thân thiếp lẻ loi một bề!
Thân thiếp chẳng gần kề dưới trướng,
Lệ thiếp nào chút vướng bên khăn?
Bui còn hồn mộng được gần,
260. Đêm đêm thường tới Giang Tân tìm người.
Tìm chàng thuở Dương Đài lối cũ,
Gặp chàng nơi Tương Phố bến xưa.
Sum vầy mấy lúc tình cờ,
Chẳng qua trên gối một giờ mộng xuân.
265. Giận thiếp thân lại không bằng mộng,
Được gần chàng bến Lũng thành Quan.
Khi mơ những tiếc khi tàn,
Tình trong giấc mộng muôn vàn cũng không.
Bui có một tấm lòng chẳng dứt,
270. Vốn theo chàng giờ khắc nào nguôi.
Lòng theo nhưng chửa thấy người.
Lên cao mấy lúc trông vời bánh xe.
Trông bến nam bãi chia mặt nước,
Cỏ biếc um dâu mướt màu xanh.
275. Nhà thôn mấy xóm chông chênh,
Một đàn cò đậu trước ghềnh chiều hôm.
Trông đường bắc đôi chòm quán khách,
Rườm rà cây xanh ngắt núi non.
Lúa thành thoi thóp bên cồn,
280. Nghe thôi ngọc địch véo von bên lầu.
Non đông thấy lá hầu chất đống,
Trĩ sập sè mai cũng bẻ bai.
Khói mù nghi ngút ngàn khơi,
Con chim bạt gió lạc loài kêu thương.
285. Lũng Tây thấy nước dường uốn khúc,
Nhạn liệng không sóng giục thuyền câu.
Ngàn thông chen chúc khóm lau,
Cách ghềnh thấp thoáng người đâu đi về.
Trông bốn bề chân trời mặt đất,
290. Lên xuống lầu thấm thoát đòi phen.
Lớp mây ngại mắt khôn nhìn,
Biết đâu chinh chiến là miền Ngọc quan?
Gậy rút đất dễ khôn học chước,
Khăn gieo cầu nào được thấy tiên.
295. Lòng này hoá đá cũng nên,
E không lệ ngọc mà lên trông lầu.
Lúc ngoảnh lại ngắm màu dương liễu,
Thà khuyên chàng đừng chịu tước phong
Chẳng hay muôn dặm ruổi rong,
300. Lòng chàng có cũng như lòng thiếp chăng?
Lòng chàng ví cũng bằng như thế,
Lòng thiếp nào dám nghĩ gần xa?
Hướng dương lòng thiếp như hoa,
Lòng chàng lẩn thẩn e tà bóng dương.
305. Bóng dương để hoa vàng chẳng đoái.
Hoa để vàng bởi tại bóng dương.
Hoa vàng hoa rụng quanh tường,
Trải xem hoa rụng đêm sương mấy lần!
Chồi lan nọ trước sân đã hái,
310. Ngọn tần kia bên bãi đưa hương.
Sửa xiêm dạo bước tiền đường,
Ngửa trông xem vẻ thiên chương thẫn thờ.
Bóng Ngân hán khi mờ khi tỏ,
Độ Khuê triền buổi có buổi không.
315. Thức mây đòi lúc nhạt nồng,
Chuôi sao Bắc đẩu thôi đông lại đoài.
Mặt trăng tỏ thường soi bên gối,
Bừng mắt trông sương gội cành khô,
Lạnh lùng thay bấy nhiêu thu
320. Gió may hiu hắt trên đầu tường vôi.
Một năm một nhạt mùi son phấn.
Trượng phu còn thơ thẩn miền khơi.
Xưa sao hình ảnh chẳng rời.
Bây giờ nỡ để cách vời Sâm Thương?
325. Chàng ruổi ngựa dặm trường mây phủ,
Thiếp dạo hài lầu cũ rêu in.
Gió xuân ngày một vắng tin,
Khá thương nhỡ hết mấy phen lương thì
Sẩy nhớ khi cành Diêu đoá Nguỵ,
330. Trước gió xuân vàng tía sánh nhau.
Nọ thì ả Chức nàng Ngâu,
Tới trăng thu lại bắc cầu qua sông
Thương một kẻ phòng không luốn giữ,
Thời tiết lành lầm lỡ đòi nau.
335. Thoi đưa ngày tháng ruổi mau,
Người đời thấm thoát qua màu xuân xanh:
Xuân thu để giận quanh ở dạ,
Hợp li đành buồn quá khi vui.
Oán sầu nhiều nỗi tơi bời,
340. Vóc bồ liễu dễ ép nài chiều xuân.
Kia Văn Quân mĩ miều thuở trước;
E đến khi đầu bạc mà thương.
Mặt hoa nọ gã Phan lang
Sợ khi mái tóc điểm sương cũng ngừng.
345. Nghĩ nhan sắc đương chừng hoa nở
Tiếc quang âm lần lữa gieo qua.
Nghĩ mệnh bạc tiếc niên hoa,
Gái tơ mấy chốc sẩy ra nạ dòng.
Gác xuân nọ mơ mòng vẻ mặt,
350. Lầu hoa kia phảng phất mùi hương.
Trách trời sao để nhỡ nhàng,
Thiếp rầu thiếp lại rầu chàng chẳng quên.
Chàng chẳng thấy chim uyên ở nội,
Cũng dập dìu chẳng vội phân trương.
355. Chẳng xem chim yến trên rường,
Bạc đầu không nỡ đôi đường rẽ nhau.
Kia loài sâu đôi đầu cùng sánh,
Nọ loài chim chắp cánh cùng bay.
Liễu sen là thức cỏ cây,
360. Đôi hoa cũng sánh đôi dây cũng liền.
Ấy loài vật tình duyên còn thế,
Sao kiếp người nỡ để đấy đây?
Thiếp xin về kiếp sau này,
Như chim liền cánh như cây liền cành.
365. Đành muôn kiếp chữ tình đã vậy,
Theo kiếp này hơn thấy kiếp sau.
Thiếp xin chàng chớ bạc đầu,
Thiếp thì giữ mãi lấy màu trẻ trung.
Xin làm theo bóng cùng chàng vậy,
370. Chàng đi đâu cũng thấy thiếp bên.
Chàng nương vừng nguyệt phỉ nguyền,
Mọi bề trung hiếu thiếp xin vẹn tròn.
Lòng hứa quốc tựa son ngăn ngắt,
Sức tí dân dường sắt tri tri
375. Máu Thiền Vu quắc Nhục Chi,
Ấy thì buổi uống ấy thì bữa ăn.
Mũi đòng vác đòi lần hăm hở,
Đã lòng trời gìn giữ người trung.
Hộ chàng trăm trận nên công,
380. Buông tên ải bắc treo cung non đoài.
Bóng cờ xí giã ngoài quan ải,
Tiếng khải ca trở lại thần kinh.
Non Yên tạc đá đề danh,
Triều thiên vào trước cung đình dâng công.
385. Nước duềnh Hán vác đòng rửa sạch,
Khúc nhạc từ réo rắt ngợi khen.
Tài so Tần, Hoắc vẹn tuyền,
Tên ghi gác Khói tượng truyền đài Lân
Nền huân tướng đai cân rạng vẻ,
390. Chữ đồng hưu bia để nghìn đông.
Ơn trên tử ấm thê phong,
Hiển vinh thiếp cũng đượm chung hương trời.
Thiếp chẳng dại như người Tô phụ,
Chàng hẳn không như lũ Lạc Dương.
395. Khi về đeo quả ẩn vàng,
Trên khung cửi dám rẫy ruồng làm cao.
Xin vì chàng xếp bào cởi giáp,
Xin vì chàng rũ lớp phong sương.
Vì chàng tay chuốc chén vàng,
400. Vì chàng điểm phấn đeo hương não nùng.
Giở khăn lệ chàng trông từng tấm,
Đọc thơ sầu chàng thẩm từng câu.
Câu vui đổi với câu sầu,
Rượu khà cùng kể trước sau mọi lời.
405. Sẽ rót vơi lần lần từng chén,
Sẽ ca dần ren rén từng thiên.
Liên ngâm đối ẩm đòi phen,
Cùng chàng lại kết mối duyên đến già.
Cho bõ lúc sầu xa cách nhớ,
410. Giữ gìn nhau vui thuở thanh bình.
Ngâm nga mong gửi chữ tình,
412. Dường này âu hẳn tài lành trượng phu.

Chinh Phụ Ngâm Khúc