Tưởng Năng Tiến
Năm 2007 nhiếp ảnh gia Ngy Thanh đi qua một chuyến phà (ở Neak Loeung, tên Việt: Hố Lương) và ống kính chuyên nghiệp của ông đã ghi lại hình ảnh của một thiếu nữ bán soài vô cùng sống động và sắc nét, cùng với đôi lời chú giải – bằng Anh Ngữ – về địa phương này:
“This is Neak Luong or Phumĭ Prêk Khsay, a little town belongs to Prey Veng (‘long forest’ in Khmer), one of the poorest provinces in Cambodia, prone to both floods and droughts. The province, situated near the Vietnamese border, was one of the most heavily bombed during the Vietnam War”.
[Đây là Neak Luong hay còn gọi là Phumĭ Prêk Khsay, một thành phố nhỏ thuộc Prey Veng (nghĩa là ‘rừng dài’ theo tiếng Khmer), nơi nghèo nhất Cambodia, thường bị cả lụt lội lẫn hạn hán. Thị trấn này nằm gần biên giới Việt, là một trong những nơi chịu bom đạn nặng nề nhất vào thời chiến tranh Việt nam].
Sáu năm sau, phóng viên Thanh Trúc cũng đã dừng chân ở nơi đây, và ghi lại một bài phóng sự ngắn (“Những Mảnh Đời Trôi Nổi Của Người Việt Ở Hố Lương”) với hơi nhiều xúc cảm:
“Tại Hố Lương, nhiều người Việt Nam, bây giờ được gọi là người Khmer gốc Việt, tuy đã sống ở chốn này gần bốn năm thế hệ nhưng mãi vẫn là những người gạo chợ nước sông, không có giấy tờ cũng không có quốc tịch.
Nghèo và không có tương lai thì không thể tránh được chuyện đi khỏi làng khỏi xóm để kiếm việc mà có khi lại rơi vào những cạm bẫy xã hội vốn đầy dẫy bên ngoài, điển hình như những quán cà phê, sự thực là quán gái, nơi rất chuộng các thiếu nữ Việt Nam…
Cuộc sống của người Việt ở Kampuchia, hoặc người Miên gốc Việt ở Xứ Chùa Tháp, những người không có quốc tịch, không có giấy tờ, không có đất đai, là cuộc sống đơn điệu, tẻ nhạt, chẳng có lối để thoát ra hay vươn lên khỏi cảnh túng đói”.
Hố Lương nằm bên dòng Bassac, thượng nguồn của Tiền Giang, tuy chỉ cách Nam Vang chừng hơn hơn một giờ xe nhưng lại rất xa khu du lịch quen thuộc Đế Thiên – Đế Thích nên du khách không mấy ai lui tới. Tôi lò dò đến đây vào cuối năm 2014, và nhận ra rằng cuộc sống của đồng bào mình hoàn toàn không có gì thay đổi: “… vẫn đơn điệu, tẻ nhạt, chẳng có lối để thoát ra hay vươn lên khỏi cảnh túng đói”.
Ngoại trừ những thanh niên thiếu nữ có thể lên thủ đô Nam Vang làm thuê, làm mướn, phụ hồ, phụ bàn, khuân vác, chạy xe ôm, bán quán cà phê (và đôi khi cũng phải bán thân luôn) còn người già và trẻ con ở Neak Loeung thì chỉ còn có cách mưu sinh là đi ăn xin hay bán hàng rong trên những chuyến phà – qua lại hàng ngày – ở khúc sông này.
Nhìn những cụm hoa lục bình tim tím, lơ lửng trên dòng nước đục màu phù sa, dưới ánh nắng vàng rực, giữa hai bờ cỏ dại xanh um – ngút xa tầm mắt – ở bến sông Hố Lương khiến tôi không dưng mà chợt nhớ đến hình ảnh an vui nơi Bắc Mỹ Thuận, vào những tháng ngày xa xưa cũ:
Trong lúc cả đoàn xe xếp hàng dài, chờ đến luợt xuống phà, hành khách tấp nập ra vào những quán ăn nằm san sát bên đường. Không khí thơm lừng mùi gà nuớng, tôm nướng, heo nướng, bò nướng, cá nướng, chuột nướng… Không gian tươi tắn màu sắc của đủ loại trái cây quen thuộc, của miền Nam: khóm, mận, ổi, nhãn, soài, măng cụt, sầu riêng, chôm chôm, vú sữa, sa pô chê, cam, quýt …
Dưới phà chen lẫn với hành khách là những em bé bán hàng rong: xôi vị, cốm dẹp, bánh bèo nước dừa, bánh tằm bì, chuối nướng, chè đậu, gỏi gà, cháo vịt, nem nướng, chả chiên, mía hấp, bì cuốn, bún mắm, chả giò, đậu phụng, cà rem, trà đá, ốc gạo hấp lá gừng, ốc leng xào dừa, chim mía rô ti…
Bến phà Hố Lương chiều nay tuy cũng an bình nhưng không nhộn nhịp và không có được cái sắc thái, cũng như sắc màu, phong phú và tươi vui như Mỹ Thuận năm nào. Anh bạn đồng hành, dân bản xứ, chỉ vào đám đông đang lao nhao vây quanh những chiếc xe chở khách:
– They’re all Vietnamese! Họ đều là người Việt!
Dù đã sống hơn nửa đời tha phương cầu thực, qua rất nhiều nơi, tôi chưa bao giờ thấy đồng hương của mình trong tình cảnh nhếch nhác, khốn cùng, và thảm thương đến thế. Tháng trước, nơi khu Phố Đèn Đỏ Geylang (ở Singapore) tôi cũng có gặp năm bẩy phụ nữ Việt Nam đi xin tiền – với phương cách vô cùng lịch sự: họ đi lanh quanh bên những bàn ăn chào mời thực khách mua giấy chùi miệng.
Thực khách ở Singapore không ai cần đến dịch vụ thừa thãi này nhưng họ vẫn vui vẻ (và tế nhị) chia sẻ vài đồng tiền lẻ với những kẻ không may ở nước láng giềng, qua hình thức bán/mua.
Singapore là một đảo quốc giầu có, với lợi tức bình quân đầu người hàng năm cao nhất nhì thế giới. Người dân bản xứ không ai phải đi bán hàng rong hoặc đi xin ăn nên họ “nhường” công việc này cho những người Việt tha hương, ở bước đường cùng.
Lợi tức bình quân hàng năm của người dân Cambodia thì ngược lại: thấp nhất nhì thế giới. Có thể vì cái khó nó bó cái khôn nên chính phủ của đất nước này không được bao dung gì cho lắm.
Theo tường trình của Minority Rights Organization (“The Situation of Stateless Ethnic Vietnamese in Cambodia”) đọc được vào hôm 19 tháng 3 năm 2014 thì có khoảng năm phần trăm, hay 750.000 người gốc Việt đang sinh sống ở Cambodia (sắc dân thiểu số đông nhất ở đất nước này) và phần lớn bị coi là những kẻ vô tổ quốc nên họ bị tước đoạt tất cả những quyền lợi căn bản.
Không quốc tịch, không khai sinh, không căn cước… nghĩa là không có quyền sở hữu đất đai, tài sản, không được quyền tiếp cận với bất cứ dịch vụ căn bản nào về xã hội, giáo dục, hay y tế.
Bị kỳ thị là chuyện phổ biến xẩy ra cho tất cả những nhóm dân bản địa hay thiểu số, ở khắp mọi nơi. Tuy nhiên, tình trạng này thường chỉ xẩy ra ở bình diện cá nhân – at personal level. Không luật pháp của xứ sở nào có thể ngăn cấm hay xử phạt sự thù ghét, khinh miệt giữa kẻ này và người nọ nếu những tình cảm tiêu cực này chưa được bầy tỏ qua ngôn ngữ hay hành động.
Còn ở bình diện thể chế, institutional level, Công Ước Quốc Tế về “xoá bỏ mọi hình thức kỳ thị chủng tộc” được hầu hết mọi quốc gia ký kết. Cambodia cũng “ký” nhưng chỉ “ký” chơi thôi!
Bởi vậy, dân Việt ở xứ Chùa Tháp bị đẩy vào cảnh khốn cùng là chuyện… tất nhiên. Tôi cũng đã bưng xề đi bán hàng bánh tiêu trong một thời gian không ngắn (ở chợ Nhà Lồng và bến xe Rạch Giá, hồi năm 1979) và cũng suýt trở thành ăn mày – đôi bận – nên khó giữ được cho lòng bình thản trước cảnh thương tâm mà nhìn thấy chiều nay, nơi bến sông này.
Giữ im lặng hay lắc đầu trước một lời van xin của một người ngoại quốc – nói tình ngay, và nói với ít nhiều xấu hổ – vẫn dễ hơn là nói “không” với những đồng bào cùng khổ, nhất là giữa cảnh sông nước bao la, nơi đất khách quê người.
Tuy nhiên, tôi biết chắc rằng mình chỉ cần hỏi nhỏ một đứa bé ăn xin một câu thôi (“Con là người Việt phải không?”) và nó gật đầu là tôi sẽ ôm cháu bé vào lòng rồi vỡ òa lên khóc. Tôi sẽ móc hết đồng bạc cuối cùng cho nó, rồi sẽ bị bao vây bởi hàng trăm người đồng hương khác, và chưa chắc đã rời khỏi được bến phà này.
Nhìn nét mặt bỗng khác thường khiến cho người đồng hành ái ngại:
– Don’t do stupid thing, man. Đừng có làm cái gì lố bịch nha, cha nội. Không có mày họ vẫn sống đấy thôi, và họ đã sống như vậy từ bao lâu nay rồi mà.
Có điều là anh bạn, cũng như chính tôi (ngay lúc đó) không hề biết rằng những chuyến phà qua sông Hố Lương đang sắp sửa đi vào… lịch sử. Rồi ra, chúng sẽ cũng cùng chung số phận – hẩm hiu – y như những chiếc phà ở sông Tiền Giang năm nào, theo như thông tin mà tôi vừa tiếp cận sáng nay:
Neak Loeung Bridge plan:
Amount: $131 million
Grant from: Japan
Start: late 2010
Finish: February 2015
Length: 2210 m/ Width: 13.5 m/ High: 37.5 m
Tưởng Năng Tiến (2014)