_____________________________

Hàng năm đến ngày 5 tháng 6 là Ngày Môi Trường Thế Giới. Năm nay sẽ tổ chức tại Pakistan.

Đây là ngày do Chương trình Mội trường LHQ – UNEP khởi xướng nhằm thúc đẩy nhận thức và hành động vì môi trường trên toàn thế giới.

Đưa ra thông báo bên lề Hội đồng Môi trường LHQ lần thứ năm –  Fifth UN Environment Assembly (UNEA-5), Cố vấn Thủ tướng Pakistan, kiêm Bộ trưởng Biến đổi khí hậu, Malik Amin Aslam, đã cùng Giám đốc điều hành UNEP Inger Andersen thừa nhận tính cấp thiết của việc ngăn chặn, ngăn chặn và đảo ngược sự suy thoái của các hệ sinh thái trên toàn thế giới.

Dưới sự lãnh đạo của Thủ tướng Imran Khan, Chính phủ Pakistan – trong một trong những nỗ lực trồng rừng tham vọng nhất thế giới – có kế hoạch mở rộng và khôi phục các khu rừng của đất nước 10 tỷ cây trong 5 năm. Chiến dịch bao gồm việc khôi phục rừng ngập mặn và rừng, cũng như trồng cây trong môi trường đô thị, bao gồm trường học, cao đẳng, công viên công cộng và vành đai xanh. Pakistan đã thành lập Quỹ Phục hồi Hệ sinh thái để hỗ trợ các giải pháp dựa vào thiên nhiên đối với biến đổi khí hậu và tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển đổi sang các sáng kiến ​​phục hồi môi trường, có mục tiêu sinh thái bao gồm trồng rừng và bảo tồn đa dạng sinh học.

Thập kỷ LHQ kéo dài từ năm 2021 đến năm 2030, đây cũng là thời hạn cuối cùng của các Mục tiêu Phát triển Bền vững và mốc thời gian mà các nhà khoa học đã xác định là rất quan trọng để tránh những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu. Kế hoạch trên nhằm mở rộng quy mô phục hồi hàng loạt các hệ sinh thái bị suy thoái và bị phá hủy để chống lại cuộc khủng hoảng khí hậu, ngăn chặn sự mất mát của một triệu loài và tăng cường an ninh lương thực, cung cấp nước và sinh kế.

Việc hồi sinh các vùng chứa carbon tự nhiên – chẳng hạn như rừng và đất than bùn – có thể giúp thu hẹp khoảng cách phát thải khí hậu 25% vào năm 2030 so với khí phát thải năm 1997 (Protocol Kyoto). Việc trồng lại các loài cây địa phương cũng có thể giúp giảm bớt một số tác động tàn phá dự kiến của một hành tinh đang ấm lên, chẳng hạn như tăng nguy cơ cháy rừng. Hiện tại có 3,2 tỷ người – 40% dân số thế giới – phải chịu đựng sự suy thoái liên tục của các hệ sinh thái, chẳng hạn như mất khả năng tiếp cận với đất màu mỡ hoặc nước uống an toàn.

Trên đây là những tin tức về Ngày Môi trường năm nay. Trong hơn 15 năm qua, người viết đều có bài nhận định về Ngày Môi Trường Thế giới, nhưng kể từ năm 2020, công việc “tường trình” nầy đã chấm dứt vì một lý do duy nhứt: ”Thế giới cứ kêu gọi – Các quốc gia tiếp tục “nói” tuân thủ – Và mọi chuyện “vũ như cẩn””!

Năm nay, người viết nhân cơ hội nầy để nêu lên vài nhận định về những ký kết quốc tế trong Thượng đỉnh COP15 tại Paris vào đầu tháng 12 năm 2015. Những ký kết và lời hứa đã gây ra biết bao tranh cãi từ đó đến nay…2021, nghĩa là gần sáu năm qua.

  1. Những lời hứa và ký kết sau COP15 Paris

Năm nay, 2021 United Nations Climate Change Conference (COP26) sẽ diễn ra từ ngày 1 – 12 Tháng 11 tại Glasgow, Scotland, UK.

Theo ước tính của IPCC – Intergovernmental Panel on Climate Change, từ nay cho đến năm 2038, toàn cầu chỉ có thể phát thải tối đa 1.000 tỷ tấn khí Carbonic vào khí quyển mà thôi. Trong quá khứ 140 năm về trước, có 1.900 tỷ tấn CO2 đã bao phủ bầu khí quyển của chúng ta rồi, căn cứ vào nghiên cứu của Khoa Vật lý, Đại học Oxford, Anh.

Thỏa thuận được coi là mang tính bước ngoặt đầu tiên về khí hậu toàn cầu đã ràng buộc cả quốc gia giàu có lẫn nghèo khó phải cam kết hạn chế sự phát thải khí CO2 nguyên nhân của sự hâm nóng toàn cầu cũng như đặt ra một mục tiêu dài hạn về việc phải xóa bỏ khí nhà kính (greenhouse effect) do con người gây ra trong thế kỷ này.

Ngoài ra, thỏa thuận cũng khuyến khích các nước tăng cường các nỗ lực tự nguyện ở trong nước nhằm ngăn chặn khí thải cũng như cung cấp thêm hàng tỷ Mỹ kim để giúp các nước nghèo tiến tới một nền kinh tế phát triển thân thiện với môi trường hơn.

Tính đến ngày cuối cùng của Thượng đỉnh (12/12), hiện có 187 quốc gia đã đệ trình các kế hoạch chi tiết của nước mình về những biện pháp nhằm khống chế việc phát thải khí nhà kính, được coi là trọng tâm của thỏa thuận đạt được ở Paris. Văn kiện nầy sẽ có tính chất ràng buộc pháp lý và quy định những cuộc duyệt xét 5 năm một lần đối với các kế hoạch quốc gia nhằm ngăn chặn tình trạng tăng nhiệt toàn cầu. Mức duyệt xét lần đầu tiên sẽ là năm 2020.

  1. Nghi vấn trong “cam kết có tính chất ràng buộc pháp lý”:
  • Cản ngăn thứ nhất là tính toán chính trị, mỗi quốc gia vì quyền lợi của riêng mình có thể đưa ra cam kết, nhưng chưa chắc gì có quyết tâm thực hiện;
  • Trở ngại thứ hai là kinh tế, các quốc gia đang phát triển có chấp nhận thay đổi mô hình phát triển hay chăng? Một khi đã cam kết chống biến đổi khí hậu cũng có nghĩa là phải đầu tư công nghệ mới để thay đổi công nghệ sản xuất “sạch”, ít phóng thích khí thải nhà kính, hoặc phải chịu chịu giảm tỷ lệ tăng trưởng. Cả hai phương cách đều làm giảm sự tăng trưởng cho chính quốc.
  • Khó khăn thứ ba là tài chính: Liệu các nước giàu ở Bắc bán cầu có chịu đóng góp mỗi năm 100 tỷ đô la vào Quỹ Khí hậu Xanh để giúp các nước nghèo ở Nam bán cầu chống biến đổi khí hậu hay không?

Vì vậy, để áp dụng “tính ràng buộc”, cần phải có những biện pháp cứng rắn hơn nữa để ép các quốc gia đã phát triển đóng góp vào Quỹ Khí hậu Xanh hầu đạt được mục tiêu 100 Tỷ hàng năm cho toàn cầu từ 2015 cho đến 2020. Làm thế nào để có những những biện pháp “cứng rắn” một khi LHQ qua Chương trình Môi trường đã bị nhiều thế lực quốc tế khuynh đảo. Có thể nói thẳng ra thế lực đó là Trung Cộng.

Như vậy, mức duyệt xét của LHQ sau 5 năm (2020) đã có kết quả như thế nào?

  • Trung Cộng tăng phát thải CO2 và xây dựng thêm nhiều nhà máy nhiệt điện so với trước Thượng đỉnh;
  • Mọi đóng góp trong số 100 tỷ Mỹ kim cho Quỹ Xanh hầu như hầu hết các quốc gia “đã hứa” nhưng không tuân thủ!
  • Chỉ có một số quốc gia như Hoa Kỳ, Pháp, Anh, Đức, Nhựt…đã giảm phát thải khí Carbonic, nhưng với số lượng không đáng kể so với định mức như đã…hứa.
  • Tuyệt đại đa số các quốc gia đang phát triển đều không tuân thủ và giảm sự phát thải từ năm 2020. Làm sao họ có thể đáp ứng những lời hứa và ký kết cho những năm… 2025, 2030, 2040, 2050, và 2100!

Thay lời kết

Qua nội dung những tin tức và các thông điệp của xã hội dân sự trong suốt gần sáu năm qua, chúng ta thấy gì?

Phải chăng, có một cái gì không ổn trong vấn đề ràng buộc và tính áp đặt trong Thỏa thuận COP15?

Phải chăng, trong tâm khảm của 196 đại diện cho 196 quốc gia đi phó hội Thượng đỉnh COP15 có lấn cấn một “cái gì” (cho tình trạng riêng của mỗi nước), để rồi, khi Thỏa thuận được đúc kết trong “gượng ép” mà vẫn phải gọi là “Thỏa thuận lịch sử” hay “Thỏa thuận bước ngoặt”?

Có phải 196 đại diện tuy đồng sàng nhưng dị mộng?

Theo thống kê, chúng ta đều biết, trong giai đoạn từ năm 2000 đến 2010, sự tăng trưởng của khí thải nhà kính tăng nhanh hơn trong giai đoạn 1980 đến 1990. Và hiện tượng trái đất nóng nhứt so với quá khứ xảy ra vào năm 2014, và nhiệt độ không khí tăng lên trung bình ở mặt đất cho thập niên nầy là 0,90C, cao hơn sự tăng nhiệt độ từ thập niên 1880 trở đi. Vì vậy, với điều kiện công nghệ hiện có và văn minh hiện tại, cũng như suy nghĩ của những nhà hoạch định chính sách trên toàn cầu, thiết nghĩ, cần phải chuyển hướng và sáng tạo một phương cách mới trong việc hạn chế sự hâm nóng toàn cầu, mà ngày hôm nay, được định nghịa lại là “Sự biến đổi khí hậu – The climate change”.

Phải chăng lãnh đạo các quốc gia trên thế giới đã đồng ý trên những kết ước không thực tế trên phương diện thực hiện, thiếu nhiều căn bản pháp lý cũng như khoa học trong việc kết luận về vấn đề thay đổi khí hậu, và chịu ảnh hưởng và áp lực chính trị của nhiều hệ thống quyền lực hữu hình như Trung Cộng và vô hình đang khuynh đảo thế giới, nhứt là Hoa Kỳ hiện tại?

Trên thế giới hiện nay có hai khuynh hướng khoa học có tỷ lệ ngang ngửa, hoàn toán trái ngược trong việc giải trình hiện tược “thay đổi khí hậu toàn cầu” nầy:

  • Khuynh hướng thứ nhứt cho rằng: Trái đất chuyển vận theo chu kỳ Ấm – Lạnh tự nhiên. Khi dân Viking bắt đầu di cư về hướng Nam và định cư ở các quốc qia Bắc Âu, và Ireland cuối thế kỷ thứ 5 vì…chu kỳ Lạnh đã bắt đầu vì đất đã bị đóng băng không còn thích hợp cho việc trồng trọt và chăn nuôi. Và thế kỷ 20, phải chăng thời điểm nầy là buổi bình minh của chu kỳ Ấm?
  • Khuynh hướng thứ hai nhứt định: Trái đất nóng lên là do sự phát thải khí Carbonic do kỹ nghệ và nhu cầu phát triển của nhân loại. Hạn chế bớt việc phát thải khí CO2 tức là hạn chế được sự hâm nóng toàn cầu. Theo ước tính của IPCC, từ nay cho đến năm 2038, toàn cầu chỉ có thể phát thải tối đa 1.000 tỷ tấn khí Carbonic vào khí quyển mà thôi. Trong quá khứ 140 năm về trước, có 1.900 tỷ tấn CO2 đã bao phủ bầu khí quyển của chúng ta rồi, căn cứ vào nghiên cứu của Khoa Vật lý, Đại học Oxford, Anh.

(Trong một bài viết sau, người viết sẽ phân tích chi tiết về hai trường phái nầy, nhứt là trường phái “chu kỳ tuần hoàn tự nhiên của Trái đất”).

Nhưng dù sao đi nữa, dù có khuynh hướng nào đi nữa, chúng ta vẫn nhận thấy việc phát thải khí CO2 vào không khí là một trong nhiều nguyên nhân khác nữa làm cho bầu khí quyển “nóng” lên trong hiện tại, và mỗi quốc gia (và chúng ta) đều có trách nhiệm liên đới.

Vì vậy, cần phải động não nhiều hơn nữa về những phương pháp hạn chế (không thể nào chấm dứt được) việc phát thải trên:

  1. Tiền: Thay đổi công nghệ sạch, cần đầu tư nguồn vốn vào nghiên cứu cũng như chấp nhận chậm phát triển trong giai đoạn chuyển tiếp;
  2. Chấm dứt hẳn việc xử dụng năng lượng hóa thạch. Điều nầy không dễ vì, nếu lấy Hoa Kỳ làm thí dụ, lượng than đá của xứ nầy còn đủ dùng cho 250 năm nữa, Mỹ không thể chấm dứt việc dùng than trong một sớm một chiều được, nhưng kỹ nghệ nầy đã được thay thế bằng phương pháp “hóa khí” – “gasification” than đá trước khi biến thành điện năng, giảm hơn 90% việc phát thải khí CO2 so với phương pháp cổ điển bằng cách đốt than đá trực tiếp;
  3. Việc áp dụng các loại năng lượng tái tạo (renewable energies) cũng cần phải cân nhắc lại vì, năng lượng tái tạo như thủy điện sẽ không phát thải khí nhà kính, nhưng lại hủy hoại hệ sinh thái toàn vùng. Chính vì vậy mà Ngày Môi trường Thế giới năm nay 2021 cổ súy cho việc phục hoạt hệ sinh thái toàn cầu;
  4. VIệc cải tiến công nghệ thực phẩm và lương thực để thích ứng với điều kiện khí hậu khắc nghiệt hơn nữa trong tương lai nhằm giảm thiểu nguồn nước tiêu thụ cũng như phân bón và các hóa chất bảo vệ thực vật. Cân bằng nguồn lượng thực động vật và thực vật sẽ là một tác động không nhỏ trong việc giảm thiểu việc phái thải khí Carbonic;
  5. Phải chăng, đã đến lúc chúng ta cần phải xét lại thói quen và cung cách ăn uống của chúng ta nhứt là đối với những người sống trong những quốc gia có nguồn lương thực dồi dào và ăn quá nhiều “thịt”?
  6. Một gợi ý khác nữa là, nếu chúng ta không giảm thiểu được nguồn phát thải khí CO2 vào bầu khí quyển do điều kiện đặc thù của từng quốc gia, một giải pháp khác được nêu ra là “làm nguội trái đất bằng cách đưa vào bầu khí quyển một lớp mây tinh thể – Salt crystal clouds…để ngăn chận bớt tia sáng mặt trời do hiện tượng phản chiếu gây ra. Đây là một ý tưởng độc đáo của một số khoa học gia nghiên cứu về neo-energie (năng lượng mới). Từ đó, trái đất sẽ bớt…nóng lên!

Chừng ấy suy nghĩ so cũng quá đủ cho các lãnh đạo toàn cầu và những nhà khoa học có viễn kiến của nhân loại suy gẫm.

Còn riêng đối với mỗi người trong chúng ta, với tư cách của một người dân toàn cầu, ý thức bảo vệ môi trường cần phải phát xuất từ trong TIM và hành động do Ý CHÍ, chứ không qua …LỜI NÓI!

TS Mai Thanh Truyết
Hội Khoa học & Kỷ thuật Việt Nam – VAST
Xuân phân –  Equinox 20/3/2021

Bài liên quan:
  • Sáu năm sau Thượng đỉnh COP21 Paris
    TS Mai Thanh Truyết