Vận Hội Mới hân hạnh nhận được bài viết mới với nhan đề “NGÀY 30/4: TẠI SAO CÁI CHẾT OAN KHIÊN CỦA VNCH LÀ KHÔNG THỂ TRÁNH KHỎI?” của GSTS Nguyễn Tiến Hưng vừa gửi đến. Ban biên tập Vận Hội Mới xin chân thành cảm ơn tác giả và trân trọng giới thiệu đến quý độc giả tài liệu lịch sử rất giá trị này.

Những ngày cuối cùng trước khi Sàigòn thất thủ đã được ghi lại bằng hai cuộc họp tối mật ở cấp cao nhất, cách nhau đúng sáu ngày – một tại Dinh Độc Lập, một tại chiến khu của Quân Ủy Miền Nam. Hai cuộc họp này với nội dung tương phản hoàn toàn, đã phản ảnh sự bất cân xứng về tiềm lực quân sự và hậu cần vào thời điểm định mệnh.

Ngày 1/4/1975 – Cuộc họp tại Dinh Độc Lập

Chỉ hai ngày sau khi mất Đà Nẵng (29/3/1975), Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu triệu tập một cuộc họp khẩn cấp với các tướng lĩnh cao cấp nhất, gồm Đại tướng Cao Văn Viên (Tổng Tham Mưu trưởng), Trung tướng Đặng Văn Quang (Cố vấn Quân sự), Trung tướng Đồng Văn Khuyên (Chỉ huy Tiếp vận). Mục tiêu buổi họp là để bàn cách tái tổ chức lực lượng: chọn mốt số đơn vị Địa Phương Quân để lập thành hai Sư đoàn Bộ binh nhằm cầm cự được lâu hơn, giúp có được một cái thế để điều đình.

Quân đội VNCH chuyển quân ở Phước Long, năm 1974

Tuy là một cuộc họp về quân sự, chúng tôi cũng được mời tham dự với tư cách Tổng Trưởng Kế Hoạch, và là người điều phối viện trợ về mặt vĩ mô.

Sau phần trình bày về tình hình chiến sự, Tổng thống Thiệu quay sang hỏi trực tiếp Đại tướng Viên:

            “Hiện giờ này, đạn dược thực sự còn bao nhiêu?”

Câu trả lời khiến cả phòng họp chìm trong im lặng:

“Thưa Tổng thống, đạn trong cả bốn kho dự trữ chỉ còn đủ cho 14 đến 20 ngày.”

Tôi nhìn thấy nỗi buồn man mác, sự chua cay, xót xa trong ánh mắt người lãnh đạo Miền Nam. Không còn gì rõ ràng hơn để báo hiệu một thực tế phũ phàng: cuộc chiến đã gần đến hồi kết và quân đội Miền Nam hoàn toàn cạn kiệt phương tiện để chiến đấu.

Ngày 7/4/1975 – Cuộc họp tại chiến khu Quân ủy Miền Nam

Chỉ sáu ngày sau, phía Bắc Việt cũng có một cuộc họp ở chiến khu Quân ủy Miền Nam để thẩm định tình hình đạn dược trước giai đoạn cuối của chiến dịch tổng tấn công. Đại tướng Văn Tiến Dũng, Tư lệnh chiến trường ghi lại trong hồi ký ký Đại Thắng Mùa Xuân (trang 184-185):

“Khi bàn đến vấn đề bảo đảm hậu cần, đồng chí Phạm Hùng (Chính Ủy Chiến Dịch) hỏi tình hình đạn dược của ta chuẩn bị đến đâu rồi, đồng chí Đinh Đức Thiện (Chủ nhiệm TC Hậu Cần) đưa ra bản thống kê số đạn đã nhận được, và số đạn đang chở từ ‘các nơi’ đến và nói:

                               “Xin báo cáo với các anh là đạn của ta
đủ bắn để nó sợ tới ba đời.”

Bộ đội Bắc Việt trên đường xâm nhập vào miền nam Việt Nam

Cùng trong buổi họp, ông Lê Đức Thọ – người từng đại diện Bắc Việt để ký Hiệp định Paris – tỏ rõ sự phấn khởi. Ông nói:

 “Chúng có 5 sư đoàn, ta có 15 sư đoàn, chưa kể các lực lượng dự bị chiến lược khác. Như vậy chỉ cho phép chúng ta đánh thắng. Đó là ý kiến của Trung Ương (trang 186). Rồi ông khích lệ các quân đoàn: “Tình hình đối với ta rất thuận lợi, khả năng rất dồi dào, ta phải nắm lấy thời cơ, làm cho nhanh, làm cho chắc.

Báo cáo về đạn dược và số quân của hai bên trong ngày tàn của cuộc chiến đã cho thấy rõ tại sao Miền Nam không thể nào tránh khỏi ngày 30/4.

 ***

Làm thế nào để bỏ rơi?

Có nhiều nguyên nhân – cả khách quan lẫn chủ quan – dẫn đến sự sụp đổ của Miền Nam Việt Nam. Nhưng thật là cần thiết để lịch sử ghi lại cho chung thực những bằng chứng chính xác về cái kết cục bi đát, bất công của VNCH, không thể để cho Henry Kissinger lấp liếm, vì ông đã lừa dối lịch tới một nửa thế kỷ rồi – như được chứng minh trong cuốn sách BỨC TỬ VNCH – Kissinger và 8 Thủ Đoạn Nham Hiểm (2024).

Sau ba thập niên nghiên cứu, chúng tôi đã lần ra đầy đủ những bằng chứng về một chiến lược tinh vi mang tên “Decent Interval” của Henry Kissinger – Cố vấn An ninh Quốc gia và Ngoại trưởng Hoa Kỳ, một người tôi coi là “quan toàn quyền về ngoại giao Hoa Kỳ dưới thời hai Tổng thống Richard Nixon và Gerald Ford”

Decent Interval – tạm dịch là “khoảng thời gian coi cho Được.” Mục tiêu của chiến lược này là làm sao ký kết được một hiệp định với Bắc Việt để Mỹ rút quân trong danh dự, đưa 519 tù binh về nước, và giữ thể diện cho nước Mỹ – mặc dù phải để lại một VNCH bị bao vây, cô lập, và cuối cùng là sụp đổ sau 1–2 năm.

Ông không chỉ thao túng chính sách đối ngoại của Mỹ, mà còn âm thầm thỏa thuận với Liên Xô – thông qua Đại sứ Anatoly Dobrynin – để phản bội nước Mỹ vê Hiệp ước SALT (Tài giảm binh bị).

Tại sao phải bỏ rơi VNCH?

Câu trả lời nằm trong một đoạn văn thẳng thắn đến lạnh người trong hồi ký White House Years. Sở dĩ Kissinger muốn bỏ rơi Miền Nam (và Kampuchia, Lào) vì ông cho rằng Đông Dương đã cản trở chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ, theo đó Trung Quốc mới là quan trọng, còn Đông Dương thì chỉ là một khu vực nhỏ bé, cho nên cần phải đẩy nó về cái khuôn khổ nhỏ bé của nó.

Ở trang 1049 trong hồi ký, Kissinger viết về việc mở cửa Bắc Kinh:

“Chúng ta cần Trung Quốc để tăng cường tính linh hoạt trong chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ… Sáng kiến về (mở cửa) Trung Quốc còn khôi phục được quan điểm của chúng ta về chính sách của quốc gia.

“Sáng kiến này thu nhỏ Đông Dương lại, để nó quay về đúng cái quy mô của nóquy mô của một bán đảo nhỏ bé trên một lục địa to lớn.”

Từ cái nhìn ấy, Đông Dương không còn là một tuyến đầu chống cộng, mà là một chướng ngại cần dẹp bỏ để đạt được những thắng lợi chiến lược lớn hơn. Vận mệnh của cả một quốc gia, hàng triệu con người, đã bị ông ta xếp vào vai trò “vật tế thần” cho chính sách toàn cầu mới theo quan niện của mình.

Cuộc mặc cả tại Tòa Bạch Ốc: Nixon và Kissinger “định đoạt” số phận Miền Nam

Mùa hè năm 1972, khi nước Mỹ đang chuẩn bị bước vào chiến dịch tranh cử tổng thống, Đảng Cộng Hòa dự kiến tổ chức đại hội tại Miami, Florida để đề cử ông Nixon tái tranh cử, một cuộc họp kín giữa Nixon và Kissinger tại Tòa Bạch Ốc vào ngày 3/8/1972 đã mang ý nghĩa quyết định.

Nội dung cuộc họp – còn được ghi lại trong băng ghi âm chính thức – cho thấy toàn bộ tinh thần của chiến lược “Decent Interval”. Nixon lo ngại rằng nếu để mất Miền Nam Việt Nam sau khi ký Hiệp định, thì uy tín của Hoa Kỳ sẽ bị sụp đổ nghiêm trọng. Nhưng Kissinger đã trấn an ông bằng một luận điệu đầy tính toán:

“Nếu một hay hai năm kể từ bây giờ mà Bắc Việt nuốt trọn miền Nam, thì chúng ta vẫn có thể duy trì một chính sách ngoại giao khả tín, miễn sao nó được coi như là hậu quả của sự bất tài của miền Nam.”

Rồi ông kết luận một cách tàn nhẫn, thậm chí cay độc:

“Vậy chúng ta cần tìm ra một công thức để giữ cho tình hình yên ổn trong một hay hai năm. Sau đó – thưa Tổng thống – Việt Nam sẽ trở thành một vũng lầy nhỏ. Nếu chúng ta kết thúc chuyện này vào tháng 10, thì đến tháng 1 năm 1974, chẳng còn ai cần đ… gì nữa (no one will give a damn).

Lời nói ấy – “no one will give a damn” – không chỉ là sự lạnh lùng vô cảm, mà còn là lời phán xét lịch sử. Nó cho thấy, đối với Kissinger, toàn bộ cuộc chiến tranh, máu xương, và hy sinh của hàng triệu người Việt Nam chỉ là một dấu chấm nhỏ không đáng kể trong cuốn sách chính trị toàn cầu mà ông đang viết.

Băng ghi âm cuộc đối thoại giữa Nixon và Kissinger

Ngày nào Kissinger đã thuyết phục được Nixon

Theo nhà nghiên cứu Jeffrey Kimball, Kissinger đã thực sự thuyết phục được Tổng thống Nixon vào ngày 28/9/1972 rằng những gì ông đang thương lượng với Hà Nội không phải là một hành động “bán đứng đồng minh” mà là một bước đi cần thiết để chấm dứt chiến tranh và bảo vệ lợi ích lớn hơn của Hoa Kỳ.

Trớ trêu thay, ngày 28/9 ấy lại gần kề thời điểm quân lực VNCH tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị – một chiến thắng mang tính biểu tượng cao độ. Khắp miền Nam lúc đó vang lên bài hát:

“Cờ bay, cờ bay, oai hùng trên thành phố thân yêu…”

Khi VNCH lấy lại thế chủ động trong chiến sự, thì ở Washington, định mệnh của miền Nam lại đang bị định đoạt trong một căn phòng đóng kín – bởi những người từng hứa hẹn sẽ sát cánh đến cùng.

Một bức thư… và sự im lặng

Ngay sau khi được Kissinger thuyết phục TT Nixon đã viết thư cho TT Thiệu ngày 16/10/1972. Cuối thư, ông còn viết tay để khẳng định về Hiệp định Paris:

“Tôi tin chắc rằng đây là giải pháp tốt nhất có thể đạt được, và phù hợp với điều kiện tuyệt đối của tôi là Việt Nam Cộng Hòa phải được tồn tại như một quốc gia tự do.”

Nixon thậm chí còn gạch dưới chữ “absolute” (tuyệt đối) trong thư, như muốn trấn an đồng minh rằng ông không lùi bước.

Như lịch sử đã diễn ra, Hiệp định Paris được ký ngày 27/1/1973 không phải là nền tảng để cho Việt Nam Cộng Hòa được tồn tại như một quốc gia tự do.

Quốc hội Mỹ bị đánh lừa

Do tin rằng chiến tranh đã kết thúc và hòa bình được vẵn hồi, Quốc hội Hoa Kỳ bắt đầu cắt giảm mạnh viện trợ quân sự cho VNCH. Trong khi đó, khối Xã Hội Chủ Nghĩa – đặc biệt là Liên Xô – lại tăng viện gấp bốn lần cho Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (VNDCCH). Chênh lệch này khiến VNCH nhanh chóng rơi vào tình trạng kiệt quệ cả về vũ khí, tiếp liệu, lẫn phương tiện truyền thông và y tế (kể cả băng cứu thương).

Trong tay TT Thiệu, chỉ còn một vũ khí duy nhất: đó là những lá thư với chữ ký của TT Nixon cam kết rằng Mỹ sẽ tiếp tục viện trợ và “bảo vệ hòa bình bằng tất cả sức mạnh của Hoa Kỳ nếu Bắc Việt vi phạm Hiệp định.”

Tuy nhiên, khi TT Nixon phải từ chức vì vụ Watergate, những lá thư này không bao giờ được chuyển đến người kế nhiệm là Tổng thống Gerald Ford. Henry Kissinger – người giữ vai trò trung gian – đã cố tình che dấu ông Ford, và che dấu luôn cả Quốc Hội Mỹ về diễn tiến của “hòa bình” và giấu nhẹm hồ sơ Nixon – Thiệu.

Bằng cách đó, ông đã tước nốt lá chắn cuối cùng còn lại trong tay VNCH.

Khi sự thật được phơi bày: Quốc Hội tỉnh ngộ, tuy muộn màng

Ngày 30/4, khi Sàigòn thất thủ thì ở bên kia bán cầu – ngay tại thủ đô Washington – một “mặt trận sự thật” khác được mở ra.

Chúng tôi, những người từng chứng kiến toàn bộ quá trình ngoại giao từ bên trong, đã quyết định công bố những bằng chứng về chiến lược “Decent Interval” và các cam kết mật giữa Nixon và Thiệu – những tài liệu bị Kissinger cố tình che giấu đi. … tất cả được đưa ra công luận đúng vào lúc thế giới còn đang sửng sốt trước cảnh tháo chạy ở Sàigòn.

Sự thật ấy như một gáo nước lạnh dội vào Quốc hội Hoa Kỳ.

Những vị dân cử trước đây từng biểu quyết cắt viện trợ, giờ đây mới nhận ra rằng họ đã bị đánh lừa. Không có hòa bình, cũng chẳng có danh dự. Chỉ có sự phản bội, sự thao túng, và những quyết định được đưa ra trong bóng tối.

Từ lạnh nhạt đến hối hận và hành động

Ban đầu, Quốc hội Mỹ gần như dửng dưng trước làn sóng người tị nạn Việt Nam tràn sang các trại tạm cư ở Guam, Wake, Camp Pendleton… Nhưng sau khi các tài liệu được công bố, và sau nhiều cuộc điều trần gay gắt, thái độ của họ đã thay đổi hoàn toàn.

Từ chỗ phản đối di tản, Quốc Hội bắt đầu thông cảm và chuyển sang tiếp nhận đoàn người tị nạn Việt Nam. Với sự thông cảm ấy, lớp người tỵ nạn đầu tiên đã hoạt động để từng bước dẫn đến các chương trình ODP (Orderly Departure Program), HO (Humanitarian Operation), các khoản trợ giúp định cư, y tế, giáo dục…

Quốc hội cũng bắt đầu điều tra lại hồ sơ Nixon–Thiệu. Nhưng chính quyền Ford, dù bị áp lực, vẫn từ chối cung cấp tài liệu – có thể vì họ cũng bị “đặt ở ngoài cuộc”, hoặc đơn giản là… những tài liệu ấy đã bị tiêu hủy để xóa đi mọi dấu vết.

VNCH: Một đội quân bị bỏ đói trong chiến hào

Quân đội VNCH: Trên đường hành quân

Nếu có ai đó hỏi vì sao VNCH sụp đổ nhanh đến vậy trong tháng 3 và 4 năm 1975, câu trả lời không nằm ở tinh thần chiến đấu, mà nằm ở hai chữ: kiệt quệ. Sau Hiệp định Paris 1973, và nhất là từ năm 1974 trở đi, khả năng chiến đấu và hậu cần của VNCH đã rơi rớt tự do không phanh.

Và đến giờ phút khi bi kịch Decent Interval hạ màn, đạn dược chỉ còn đủ cho 12 tới 20 ngày – như ĐT Viên báo cáo ngày 1/4/1975.

“Thượng Đế đứng về phe có tiểu đoàn lớn nhất, mạnh nhất”

Thiếu tướng John E. Murray – Tùy viên quân sự Hoa Kỳ tại Sàigòn (1973–1974), là chứng nhân tại chỗ – trong một báo cáo mật, đã so sánh tương quan lực lượng hai bên trước khi sụp đổ:

“Trong thời cao điểm của lực lượng Hoa Kỳ ở Việt Nam, chúng ta từng có 433 tiểu đoàn tác chiến Mỹ và Đồng minh chiến đấu ở Việt Nam. Địch có 180 tiểu đoàn. Đến năm 1974, khi chúng ta rút lui, VNCH có 189 tiểu đoàn, địch tăng lên 330 tiểu đoàn.

“Lấy đi B-52, F-4, lấy đi hải pháo, lấy đi tất cả…Và ta bắt đầu yểm trợ miền Nam với 2% tổng số tiền đã dùng cho quân đội Mỹ, để đương đầu với một số địch quân nhiều hơn.”

Rồi ông kết luận bằng một trích dẫn đáng suy ngẫm:

“Napoleon đã từng nói: Thượng Đế đứng về phe nào có các tiểu đoàn lớn nhất, mạnh nhất.”

Đúng như vậy. Thượng Đế đã đứng về phe cộng sản vào năm 1974; quân họ đông hơn, mạnh hơn. Và đó là lý do chúng ta đã thua chiến tranh Việt Nam.”

Trên thực tế – và chúng tôi là nhân chứng –  cuối cùng thì cũng chẳng có số tiền tương đương 2% , mà hầu như là con số không.                                          

                                                          ***

Từ Nguyễn Văn Thiệu 1975 tới Volodymyr Zelensky 2025

Gần nửa thế kỷ đã trôi qua kể từ ngày 30/4/1975 – ngày định mệnh kết thúc một quốc gia. Nhưng âm hưởng của sự kiện ấy vẫn vang vọng trong thời sự quốc tế, nhất là khi người ta chứng kiến một quốc gia khác – Ukraine – đang vật lộn để tồn tại.

Tuy cuộc chiến Việt Nam và chiến tranh Ukraine là khác hẳn nhau về bản chất lẫn hoàn cảnh lịch sử, nhưng về vấn đề viện trợ của Hoa Kỳ thì có điểm tương đồng.

Một trong những câu nói gây chấn động trong cuộc chiến Ukraine đến từ Tổng thống Volodymyr Zelensky. Trong cuộc phỏng vấn với nhà báo Amna Nawaz trên PBS ngày 14/4/2024, ông thẳng thắn nhấn mạnh:

“Tôi có thể nói rõ ràng với bà: nếu không có sự hỗ trợ của Hoa Kỳ, chúng tôi sẽ không thể chiến thắng.” Có nghĩa là sẽ chiến bại.

Mới đây, ngày 14/2/2025, ông nói trên đài NBC:

“Sẽ rất, rất, rất khó khăn để Ukraine có thể tồn tại nếu không có sự hỗ trợ quân sự của Hoa Kỳ, cả hiện tại khi nước này cố gắng chiến đấu và trong tương lai sau khi chiến tranh kết thúc.”

Những lời này vang lên trong tai tôi như một tiếng vọng từ quá khứ.

Tháng 1/1973, ngay sau khi Kissinger trở về từ Paris với bản thỏa hiệp đình chiến trong tay, TT Nguyễn Văn Thiệu đã dành một cuộc phỏng vấn cho ký giả nổi tiếng người Ý, bà Oriana Fallaci (còn ghi lại trong cuốn sách Interview with History).

Khi được hỏi điều gì sẽ xảy ra nếu Hoa Kỳ không còn viện trợ nữa, ông Thiệu trả lời không hề do dự:

“Nếu Mỹ bỏ rơi chúng tôi, đó sẽ là sự kết thúc. Kết thúc hoàn toàn, tuyệt đối.”

Liệu ông có thể tìm được những nguồn lực nào khác?

“Làm sao chúng tôi có thể tìm được một quyền lực nào khác giống như Mỹ đã giúp chúng tôi? Có thể chúng tôi cũng tìm được một quốc gia khác sẵn sàng giúp, nhưng không quốc gia nào có nhiều phương tiện như Mỹ.”

Những lời nói ấy, hơn 50 năm sau, giờ đây lại được lặp lại gần như nguyên văn – không phải bởi một nhà lãnh đạo Á Đông, mà bởi một tổng thống châu Âu trong thế kỷ 21.

Chỉ cần thay cái tên “Nguyễn Văn Thiệu” bằng “Volodymyr Zelensky”, thì toàn bộ tâm trạng, nỗi lo sợ, và sự phụ thuộc vào Hoa Kỳ được lặp lại một cách kỳ lạ.

Nếu như ‘kế hoạch hòa bình’ do Mỹ đưa ra tiếp tục bị bế tắc và Mỹ “bỏ đi” – vì còn những ưu tiên khác như  Gaza, Iran, Trung Quốc (Biển Đông, Đài Loan), cuộc thương chiến, v.v.  thì tương lai của Ukraine sẽ như thế nào?

Lặp lại lời ông Zelensky rằng ‘sẽ rất, rất, rất khó khăn (it would be very, very, very difficult) để Ukraine có thể tồn tại nếu không có sự hỗ trợ quân sự từ Mỹ – cả bây giờ, khi chúng tôi chiến đấu, lẫn sau này khi chiến tranh kết thúc’, câu hỏi đặt ra là liệu một ngày “30 tháng 4” khác có đến với Ukraine?

TS Nguyễn Tiến Hưng